Quyền thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc và một số vấn đề pháp lý liên quan

Quyền thừa kế của người đại diện thừa kế:

Câu hỏi đề nghị tư vấn:

Hiện tại tôi đang ở trong một căn nhà do ba, mẹ tôi để lại. Tôi có 03 chị gái đều có gia đình. Mẹ tôi mất năm 1982, ba mất năm 1999. Khi ba, mẹ mất không để lại di chúc nhựng hiện tại tôi được cấp 01 sổ hồng mang tên tôi nhưng có ghi là “đại diện thừa kế cho Ông …… – Sinh năm 1922 (Mất) và Bà …….Sinh năm 1922 (Mất). Vậy xin hỏi về mặt pháp luật tôi có được thừa kế toàn bộ căn nhà hay không? hay phải phân chia theo luật định, nếu vậy tôi có phải yêu cầu 03 chị gái làm hồ sơ không nhận di sản không? (Hiện tại tôi có 01 chị đang ở nước ngoài).

Trả lời:

Theo thông tin anh cung cấp, bố mẹ anh mất không để lại di chúc, vậy di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật, cụ thể căn nhà trên sẽ được chia đều cho bốn người con (nếu không còn ông bà nội, ngoại). Tứ là mỗi người con đều có quyền hưởng một phầm di sản thừa kế ngang nhau.

Nếu trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có ghi anh là đại diện thừa kế cho ông…. bà…. thì anh chỉ là người đại diện đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Những đồng thừa kế đã nhất trí để anh là người đại diện về mặt pháp lý của khối di sản thừa kế nêu trên. Khi có yêu cầu của một trong những người thừa kế trên thì di sản trên sẽ được chia theo quy định của pháp luật.

Trường hợp những người đồng thừa kế muốn nhượng suất thừa kế của mình cho anh thì họ cần làm thủ tục từ chối nhận di sản thừa kế.

Điều 642. Từ chối nhận di sản

1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.

3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.

Tuy nhiên, cũng theo quy định trên thì thời hạn từ chối nhận di sản được quy định là 6 tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Do anh không nói rõ bố mẹ anh mất thời điểm nào nên anh tự đối chiếu để xác minh.

Nếu kể từ ngày mở thừa kế đến nay đã quá 6 tháng thì được xem là đồng ý nhận thừa kế. Trường hợp này, nếu muốn cho anh có quyền sở hữu đối với toàn bộ căn nhà trên thì những người chị của anh phải làm thủ tục chuyển nhượng hoặc tặng cho quyền sử dụng đất cho anh theo quy định của BLDS và luật Đất đai

Tư vấn lập di chúc và mẫu di chúc

Câu hỏi đề nghị tư vấn:

Bà ngoại tôi chỉ sinh ra được một mình mẹ tôi. Bây giờ bà ngoại đã già yếu muốn cho mẹ tôi một thửa đất và nhà hiện đang sống nhưng mẹ tôi không muốn lấy và mẹ tôi muốn bà ngoại tôi thừa kế đất và nhà lại cho tôi. Bà ngoại cũng đã đồng ý. Nên bây giờ tồi muốn hỏi luật sư là thủ tục thừa kế thế nào. Bà ngoại tôi phải viết di chúc lại cho tôi hay sao.luật sư có mẫu đơn di chúc gửi cho tôi được không.

Trả lời:

Bà ngoại anh/chị cần lập di chúc thành văn bản và để chặt chẽ nhất thì có thể công chứng di chúc (không bắt buộc). Cụ thể về việc lập di chúc chúng tôi đã tư vấn trường hợp tương tự qua bài viết “Tư vấn lập di chúc hợp pháp”. Anh/chị tham khảo để giải đáp thắc mắc của mình! Ngoài ra, anh/chị có thể tham khảo Bộ luật Dân sự 2005 có quy định và hướng dẫn đối với trường hợp của anh/chị. Tư vấn về bồi thường tài sản bị mất.

Câu hỏi đề nghị tư vấn:

Chuyện xảy ra trong công ty em, bảo vệ có làm mất xe của khách và giám đốc ra quyết định là công ty chịu 1 nửa, nửa còn lại là bảo vệ và các nhân viên phải chiu trách nhiệm. Điều đáng nói là công ty thuê người này vừa làm bảo vệ, vừa lao công và không có hợp đồng, không phải thuê bảo vệ thuộc công ty bảo vệ. Vậy nếu mất xe bảo vẹ phải bồi thường thế nào là hợp lý nhất? Và điều quan trọng là GĐ bắt nhân viên chịu 1 phần chi phí bồi thường trong đó. Như vậy là sai luật hoàn toàn đúng không ạ? Vì nhân viên chỉ làm công việc của văn phòng, cũng không nhận đc lương trách nhiệm bảo vệ, vậy tai sao khi xảy ra chuyện lai bắt nhân viên chiu 1 phần trách nhiệm? Xin hỏi Luật sư nếu vậy đã phạm quy định nào? và người lao động có quyền kiện công ty không? Và phía công ty sẽ chiu mức phạt bao nhiêu cho hành động này?

Trả lời:

Việc nhân viên có phải bồi thường số tiền tài sản bị mất kia không sẽ phụ thuộc vào những yếu tố sau: Nhân viên này có hợp đồng làm công việc bảo vệ không? có thỏa thuận về trách nhiệm khi xảy ra mất tài sản hay không? có nhận được thù lao từ chi phí bảo vệ hay không? Nếu không có có khoản chi phí và hợp đồng thực tế nào ràng buộc người lao động thực hiện những công việc trên thì thì nhân viên sẽ không có trách nhiệm bồi thường tài sản?