Mobile Money được xem là một giải pháp tài chính toàn diện, cho phép mọi người dân đều được tiếp xúc với các công cụ thanh toán chính thống không dùng tiền mặt và đẩy nhanh việc chuyển đổi số quốc gia.
Khi Mobile Money được cấp phép triển khai, Người dùng dịch vụ tiền di động có khả năng chuyển tiền, thanh toán cũng như nhận tiền thông qua tài khoản của điện thoại di động. Dịch vụ này có thể cung cấp dịch vụ cho khách hàng không có tài khoản ngân hàng. Để triển khai tiền di động sẽ có một mạng lưới các điểm giao dịch gồm các đại lý, ngoài các chi nhánh ngân hàng và máy rút tiền tự động, cung cấp khả năng tiếp cận dịch vụ một cách rộng rãi tới tất cả người dân.
Dịch vụ đang được Bộ Thông tin Truyền thông và Ngân hàng Nhà nước xúc tiến nhằm triển khai tại thị trường Việt Nam. Nếu triển khai hoàn tất trong năm nay, Việt Nam sẽ là quốc gia thứ 91 triển khai dịch vụ này. Tuy vậy, nhiều thách thức cần phải giải quyết để dịch vụ được cấp phép tại Việt Nam.
Mobile money là gì?
Hiện chưa có bất kỳ bộ luật nào của Việt Nam đưa ra định nghĩa về Mobile Money. Ở một góc độ nào đó, gần gũi nhất với dịch vụ Mobile Money chính là các ví điện tử.
Nghị định 80/2016/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ quy định, ví điện tử là dịch vụ cung cấp một tài khoản điện tử định danh do các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tạo lập trên vật mang tin (như chip điện tử, SIM điện thoại di động, máy tính…). Nó cho phép lưu giữ một giá trị tiền tệ được đảm bảo bằng giá trị tiền gửi tương ứng với giá trị tài khoản thanh toán của khách hàng gửi vào tài khoản đảm bảo thanh toán của tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán theo tỷ lệ 1:1. Ví điện tử giống Mobile Money ở tài khoản điện tử định danh.
Cả Mobile Money và đơn vị cung cấp dịch vụ Mobile Money đều chưa được quy định trong điều khoản nào của pháp luật Việt Nam. Mobile Money về bản chất là e-money hay ví điện tử nhưng không có liên kết tài khoản ngân hàng.
Nếu tách phần định nghĩa của ví điện tử là tài khoản định danh điện tử lưu trữ giá trị tiền tệ tương ứng với số tiền của khách hàng nạp vào theo tỷ lệ 1:1 thì sẽ ra Mobile Money.
Như vậy, về bản chất Mobile Money chính là e-money theo định nghĩa của các nước. Với Việt Nam, đó là một loại ví điện tử nhưng không có tài khoản ngân hàng.
Với ví điện tử, việc định danh khách hàng (KYC) được thực hiện bởi các ngân hàng. Đây cũng là điểm khác biệt lớn nhất khi mà việc định danh của Mobile Money này được thực hiện bởi chính các nhà mạng. Thách thức với các nhà mạng là kho dữ liệu khách hàng phải chính xác, tránh mạo danh và xác thực được như ở các ngân hàng.
Nếu coi Mobile Money là một tài khoản điện tử định danh được thực hiện thông qua thiết bị di động thì tài khoản định danh e-money phải được lưu trữ trên hệ thống chứ không phải mất điện thoại là mất tất cả. Việc này đòi hỏi nhà mạng phải có một hệ thống CNTT lưu trữ toàn bộ dữ liệu này.
Về nguyên tắc, Mobile money không được làm phát sinh lượng tiền tệ, số tiền mà công ty viễn thông nhận được khách hàng phải được nạp tương ứng theo tỷ lệ 1:1. Vì vậy, 100 đồng mua thẻ cào sẽ được 100 đồng trong ví, không thể 90 đồng mua thẻ cào được 100 đồng trong ví như hiện nay.
Đây là tiền Việt Nam được thể hiện trên một phương tiện khác chứ không phải một giá trị tiền tệ nào khác cả. Đây là một hình thái thể hiện của đồng tiền pháp định.
Nhà mạng phải có giấy phép trung gian thanh toán
Để có thể cung cấp dịch vụ Mobile Money, các công ty viễn thông phải có giấy phép cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán.
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, các nước thường cho phép những nhà cung cấp dịch vụ Mobile Money sử dụng số tiền này để mua trái phiếu chính phủ hay đầu tư vào những hoạt động có khả năng rủi ro thấp.
Tuy nhiên, theo ông Phạm Tiến Dũng, Ngân hàng nhà nước đang đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về điều kiện rằng tổng số dư của Mobile Money phải tương ứng với số tiền của công ty ví gửi tại tài khoản đảm bảo ngân hàng. Số tiền này chỉ được sử dụng với mục đích của ví, công ty cung cấp dịch vụ Mobile Money có thể làm ăn thua lỗ nhưng số tiền trong tài khoản người dùng vẫn phải đảm bảo trong ngân hàng. Điều này cũng có nghĩa, nếu nhà cung cấp dịch vụ Mobile Money của 10 khách hàng với tổng số dư là 10 tỷ thì đơn vị đó phải có 10 tỷ gửi ở ngân hàng thay vì mang đi kinh doanh ở đâu đó.
Sau khi tham khảo các mô hình trên thế giới, Ngân hàng Nhà nước cho rằng đối tượng triển khai Mobile Money chính là các công ty viễn thông đã được cấp giấy phép trung gian thanh toán. Trong mô hình này, Việt Nam chưa tính đến câu chuyện chuyển tiền quốc tế, liên kết giữa các ví và liên kết chéo giữa các nhà cung cấp dịch vụ mobile money.
Thách thức cho nhà mạng
Khi Mobile Money được triển khai, SIM điện thoại hoặc chính chiếc điện thoại sẽ là phương thức để giao tiếp, trong khi số tiền trong ví người dùng sẽ được lưu ở hệ thống CNTT của các nhà mạng viễn thông. Điểm khó nhất trong việc triển khai Mobile Money là phải đảm bảo tài khoản dịch vụ Mobile Money và SIM điện thoại phải được định danh. Điều này liên quan tới việc quản lý SIM rác.
Để đảm bảo an ninh, bảo mật, an toàn dữ liệu, Mobile Money phải có quy định rõ ràng về việc mã hoá như thế nào, giao dịch bao nhiêu thì phải có mật khẩu (password), OTP.
Bên cạnh đó, ví điện tử chỉ có thể nạp tiền thông qua các ngân hàng, với Mobile Money, sẽ được nạp từ các đại lý bán thẻ. Điều này nảy sinh nhiều vấn đề, đó là hạn mức của các đại lý là bao nhiêu? Quản lý hoạt động của các đại lý này như thế nào? Làm sao để quản lý được nguồn tiền?,…
Theo đại diện Ngân hàng Nhà nước là không thể chấp nhận các đơn vị làm Mobile Money nhưng để các hacker có thể xâm nhập và chiếm dữ liệu khách hàng, thay đổi số dư trong tài khoản,… Bên cạnh đó, vấn đề phòng chống rửa tiền cũng cần được cần lưu tâm.
Ngân hàng nhà nước còn quan tâm đến hạn mức thanh toán. Hiện tại, giá trị giao dịch bình quân của mỗi ví mobile money trên thế giới là khoảng 206 USD/tháng. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước có ý định giới hạn trần thanh toán của các giao dịch là khoảng 10 triệu đồng/tháng. Đây chỉ là con số bước đầu và sẽ được điều chỉnh tuỳ theo xu hướng của thị trường.
Với những vấn đề chưa có tính pháp lý như mobile money, Việt Nam phải có cách làm phù hợp. Đó là chuyển sang phương pháp quản lý theo mục tiêu thay vì các quy trình, quy định. Tuy vậy, vẫn cần phải đảm bảo được tính thanh khoản, số tiền gửi của các nhà cung cấp phải để ở ngân hàng với số dư các tài khoản được đảm bảo và giám sát bởi Nhà nước
Mọi thông tin chi tiết Quý khách vui lòng liên hệ với Luật Nam Phát qua Hotline 0902 845 039 để được tư vấn trực tiếp.